“Một cô gái New York có thể không nghĩ về dãy núi Catskills khi rót một ly nước. Người London có lẽ không nghĩ tới rừng nhiệt đới Amazon khi họ nhìn mưa rơi trên công viên thành phố” (1). Các cô gái ở Sài Gòn hay Hà Nội cũng thế, dù không nghĩ tới thì núi rừng Tây Nguyên, Tây Bắc… vẫn hiện diện trong đời sống của những cư dân các đô thị đồng bằng.
Tức là, nếu muốn nói về đô thị miền núi, không thể không bắt đầu từ câu chuyện hệ sinh thái núi rừng.
“Vận mệnh nhân loại phụ thuộc vào 12inch mùn thực vật”
“Chúng ta là thế giới, thế giới là chúng ta” J. Krishnamurti (1895 – 986, nhà truyền bá triết học và tinh thần, Ấn Độ ) đã khái quát sự phụ thuộc lẫn nhau của mọi thành phần trong thế giới vi mô lẫn vĩ mô của hệ sinh thái không biên giới ở mọi cấp độ trong câu này.
Quả vậy, cô gái New York chẳng nghĩ tới dãy núi Catskills cách mình ngót 200km, nhưng sự thật là cô đang uống nước sông Hudson bắt nguồn từ núi đó. Là sức khỏe, làn da, mầu môi của cô có phần nhờ chất lượng nước sông, cây rừng trên núi.
Mô hình hóa đường đi của nước, giúp phòng chống thiên tai và sử dụng hiệu quả tài nguyên nước.
Hoặc rừng mazon (diện tích hơn 6,7 triệu km2 trải trên 9 quốc gia Nam Mỹ) được gọi “lá phổi của trái đất” vì khả năng hấp thụ và lưu trữ một lượng lớn khí carbon dioxide “sau nhiều thập niên bị nạn phá rừng để khai thác mỏ, làm nông nghiệp, các tác động của nó đã vượt ra ngoài vùng nhiệt đới, làm thời tiết ẩm ướt ở Anh tồi tệ hơn, gây ngập lụt sông Thames, thiệt hại nông nghiệp do tăng lượng mưa mùa đông, trong khi lại làm giảm mưa ở trung tây Hoa Kỳ và miền Nam nước Pháp” (2).
Đó là một trong số các lý do người Anh lập quỹ bảo vệ Amazon và không mua gỗ từ nó, mặc dầu khoảng cách địa lý này là hơn 8.000km. Họ còn biết rằng: “Trong một năm, một cây trưởng thành sẽ hấp thụ hơn 48 pound (khoảng gần 24kg) carbon dioxide từ khí quyển giải phóng oxy để chuyển đổi. Vì vậy, khi bạn hít một hơi thật sâu không khí, hãy ghi công, hoặc ôm nó để cảm ơn cây đã mang lại không khí cho chúng ta hít thở” (3).
Cây là “kỹ sư nước đa năng” do trước hết có chỉ số diện tích lá (tổng diện tích bề mặt lá trên một đơn vị diện tích mặt đất) cao hơn các thảm thực vật khác (4m2 lá/1m2 đất ở rừng châu Âu, rừng nhiệt đới nhiều tầng chắc chắn cao hơn nhiều). Như vậy tán của cây có hiệu quả hơn trong việc ngăn mưa xối thẳng mặt đất, cùng với các bộ rễ mạnh mẽ, chúng chống lại lực xói mòn của mưa trút xuống các triền đất dốc. Sau nữa, loại cây có bộ rễ sâu tiếp cận và bơm một lượng nước lớn hơn trong lòng đất vận chuyển đến lá để thoát hơi nước và sinh trưởng. Một cây sồi lớn thoát ra tới 1.600 lít nước mỗi ngày. Cả cánh rừng thoát nước theo dòng không khí chuyển động như “những dòng sông bay” điều tiết mưa, làm mát môi trường, dễ dàng giảm 5-10°C nhiệt độ bề mặt (đo ở bề mặt của tán cây tiếp xúc với ánh nắng).
Cuối cùng, hệ thống rễ cây của rừng giúp nước thấm vào đất tốt hơn, và lượng lá rụng nhiều dẫn đến nhiều carbon hơn cho đất, giúp cải thiện khả năng giữ nước trong đất và tái tạo nước ngầm (4).
Mô hình hóa không gian đô thị các giai đoạn để kiểm soát phát triển ở Trung Quốc.
Lá rụng nhiều thì giúp tạo mùn, là lớp đất có độ ẩm cao, giầu dinh dưỡng, hình thành từ quá trình phân hủy các chất hữu cơ. Rất cần thiết cho sự sống của đất và cây vì nó cung cấp liên tục các nguyên tố vi lượng, chất dinh dưỡng và độ ẩm cho cây, cho các sinh vật đất (các loại vi khuẩn, tuyến trùng, giun đất…) ăn, sinh sôi. Sự hình thành mùn là quá trình sinh học, được mô tả như “sinh lực” của đất. “Chỉ có 4-12inch (10-30cm) đất chứa mùn ở lớp vỏ trên của trái đất. Lớp đất mỏng này là tất cả những gì tồn tại để cung cấp dinh dưỡng cho toàn bộ cuộc sống con người. Vận mệnh của nhân loại phụ thuộc vào 12 inch đó!”(5).
Chúng tôi ăn rừng
Quá trình sinh học (hình thành mùn) của rừng tạo ra quần xã sinh vật phong phú hơn bất cứ đất đai nơi nào, với hàng ngàn loại thực vật sinh sôi duy trì sự sống cho hàng trăm loại động vật ăn chúng, ăn lẫn nhau và con người có thể ăn, sử dụng hết thảy những gì trong hệ sinh thái đặc trưng của rừng núi.
Có lẽ quan niệm về rừng như vậy, nên bà Ksor H’Bơ Khăp (nguyên đại biểu Quốc hội tỉnh Gia Lai) cách đây gần ba năm đã bác bỏ trước Quốc hội khái niệm rừng của ông Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường. Cụ thể, ông Xuân Cường cho rằng “cây cao su, cây cà phê, cây tiêu… cũng được tính vào tỷ lệ che phủ của rừng. Giúp sau 30 năm, diện tích rừng của chúng ta là 14,6 triệu ha, trong đó rừng tự nhiên là 10,3 triệu ha, rừng trồng là 4,3 triệu; độ che phủ gần 42% trong khi mức bình quân thế giới chỉ là 29%”.
Quan điểm này bị bà Ksor H’Bơ Khăp phản bác: Đó không phải là rừng, đơn giản bởi “không có một con gì sống được ở trong rừng đó, (nên) làm gì có chuyện rừng tự nhiên lại tăng lên như Bộ trưởng nói”.
Thành phố Bảo Lộc (Lâm Đồng) ngập nặng hôm 8.8.2019. Ảnh: Hoài Thanh/Vnexpress
Hình ảnh sạt lở ở đèo Bảo Lộc. Theo báo cáo của Hạt Kiểm lâm huyện Đạ Huoai, diện tích đất bị sạt trượt trong vụ sạt lở đất vùi lấp Trạm Cảnh sát Giao thông có một phần nằm ngoài và một phần nằm trong quy hoạch 3 loại rừng. Ảnh: Báo Lao Động
Đây là cuộc tranh luận rất đáng chú ý, một bên thuộc xã hội “Chúng tôi ăn rừng” (chữ của Georges Condominas) theo nghĩa rừng cho họ mọi thứ từ côn trùng, các loài thú, các loài thực vật, thuốc men… đến vật liệu làm nhà, đối lập với quan điểm của “những người ăn lúa /làm ruộng nước ở đồng bằng” ăn những gì họ nuôi trồng. Sự khác biệt về bản chất ấy tựa như sâm Ngọc Linh lớn lên trong tự nhiên phải cạnh tranh với hệ thực vật xung quanh nó, dược tính đặc biệt quý giá được tạo ra từ cuộc tranh đấu sinh tồn, mà sâm nuôi cấy mô không trải qua, nên không thể so về giá trị.
Vậy muốn có được đầy đủ dược tính của sâm Ngọc Linh buộc phải bảo tồn hệ sinh thái của nó. Logic tự nhiên của “những người ăn rừng” thì phải giữ rừng, là minh triết/văn hóa của họ. Đối lập với người nông dân ở đồng bằng luôn cần quảng canh/mở rộng diện tích đất trồng trọt để tăng năng suất, khai thác khoáng sản, xây thành phố… mà rừng núi là trở ngại cần vượt qua. Những người “mong muốn khai thác môi trường rừng núi hơn lợi ích để họ bảo tồn nó” (Klaus Bosselmann, nhà hoạt động vì môi trường toàn cầu).
Sức sống kiên cường của rừng xanh dẫu đã trải hàng ngàn vạn năm, nhưng chỉ chưa đầy năm mươi năm qua, đang hấp hối.
Trong cuộc tranh luận này, tôi đồng ý với bà Ksor H’Bơ Khăp từ trải nghiệm cá nhân. Sau những năm rong ruổi qua nhiều cánh rừng từ tây Quảng Bình, Ninh Thuận đến Đắk Lắk… trên dãy Trường Sơn, cuối 1974 tôi rời rừng Quảng Nam xuống đồng bằng, ngoái lại nhìn cánh rừng nguyên sinh thâm u soi bóng dòng Trà Nô.
Hè năm 2022 thăm lại nơi đây, nhìn từ cầu Bà Huỳnh xuống dòng sông hầu như không còn chảy nổi vì các đập thủy điện đang tích nước, quanh tôi không còn rừng, chỉ mênh mông một loại cây keo bao phủ thay rừng xưa ẩm ướt. Nắng nóng nung đất khô, bạc phếch, khắp nơi chỉ một loại cỏ lạ xưa không thấy, không tiếng động, không loài vật nào sống nổi. Thảng khi bắt gặp đoàn xe tải chở nặng gỗ keo, vài túp nhà người Ca Dong, mấy đứa trẻ mình trần tha thẩn chơi ngoài nắng…
Sức sống kiên cường của rừng xanh dẫu đã trải hàng ngàn vạn năm, nhưng chỉ chưa đầy năm mươi năm qua, đang hấp hối.
Sức chứa sinh thái – ngưỡng báo động đỏ
Các dãy núi chiếm khoảng 27% bề mặt trái đất, nhưng chỉ 40% diện tích núi được rừng bao phủ (6). Tỷ lệ này nhấn mạnh sự quý giá của rừng. Nhưng địa hình núi hiểm trở: dốc, gồ ghề, bị chia cắt liên tục, thiếu đất canh tác, sinh kế khó khăn… nên trải hàng ngàn năm văn minh nông nghiệp mật độ dân số miền núi rất thấp, người đồng bằng “không đủ sức tiến núi”, phá rừng núi để xây dựng những đô thị núi (nền văn minh cổ đại có rất ít thành phố được xây dựng trên núi dù cần phòng thủ, trường hợp đô thị của người Maya có thể ngoại lệ?). Đến thời văn minh công nghiệp, hậu công nghiệp, với máy móc, các phương tiện, hạ tầng giao thông hiện đại nhanh chóng kết nối xã hội người đồng bằng với miền núi.
Thảm họa lở núi ở đô thị Joshimath (Ấn Độ) kéo từ 27.12.2022 đến 8.1.2023. Chính quyền thừa nhận do tình trạng xây dựng bừa bãi đã diễn ra từ lâu, mặc dù đã được cảnh báo sớm. Ảnh: Interet
Quá trình đô thị hóa toàn cầu đã làm tăng dân số miền núi từ hơn 550 triệu người năm 1975 lên hơn 1 tỷ 50 triệu vào năm 2015 (gần gấp đôi sau 40 năm). Các dãy núi đông dân cư nhất cũng là những vùng đô thị hóa mạnh nhất (66%), có tới 65% dân số vùng núi sống ở các kích cỡ đô thị và khu vực bán dày đặc, chỉ 35% ở các vùng nông thôn. Đặc điểm phân bố nhân khẩu ở núi là giảm dần theo độ cao từ đáy thung lũng tới đỉnh núi. Rất cao là trên 200 người/km2, cao từ 100 – 200 người/km2, trung bình từ 30 – 100 người/km2, thấp là dưới 30 người/km2 trong vòng bán kính 7km (7). Tất nhiên mẫu phân bố này không thể hiện tình trạng định cư ở mọi dãy núi các châu lục, quốc gia, vùng khí hậu… khác nhau. Nhưng ít nhất nó cho thấy công cuộc đô thị hóa miền núi đang diễn ra rất nhanh.
Chính vì vậy các quốc gia có nhiều núi đã tổ chức nghiên cứu để phát triển loại đô thị miền núi. Trung Quốc chẳng hạn, đồi núi, cao nguyên chiếm khoảng 70% diện tích lãnh thổ nước này với 45% dân số ở vùng núi. Khoa Đô thị học miền núi của Đại học Trùng Khánh được GS. Guangyu Huang đặt nền móng khá sớm (năm 1959) đến nay đã phát triển sâu rộng theo các vùng chính: đông, trung và tây Trung Quốc, đưa tới một khái quát rằng từ các điều kiện địa lý, khí hậu, văn hóa… khác nhau, không chỉ dẫn đến sự khác biệt trong phát triển kinh tế của mỗi vùng mà còn tạo sự khác biệt trong từng nội vùng.
Một mô hình cảnh báo ứng phó lở băng ở vùng núi tuyết. Ảnh: Internet
Trong nhiều mục tiên nghiên cứu, việc tìm “sức chứa tự nhiên”/hay tổng nguồn cung của thiên nhiên với điểm ngưỡng dân số rất quan trọng. Do nó chỉ ra khả năng “chịu đựng” của hệ sinh thái ở mỗi lãnh thổ núi trong việc đáp ứng các nhu cầu của con người về tài nguyên thiên nhiên và các dịch vụ hệ sinh thái “là những lợi ích mà con người có được từ nó” (8). Để làm được việc đó, các nhà nghiên cứu đô thị miền núi Trung Quốc đã áp dụng nhiều lý thuyết, phương pháp tính toán mới từ Âu-Mỹ, cung cấp các cơ sở khoa học cho hoạch định chiến lược phát triển và quy hoạch đô thị miền núi.
Ví dụ phương pháp “Dấu chân sinh thái”/Ecological Footprints được dùng lượng hóa ngưỡng chịu tải sinh thái, là “thước đo duy nhất đo lường lượng thiên nhiên mà chúng ta có và lượng hóa được thiên nhiên mà chúng ta sử dụng” cho TP. Đại Lý (tỉnh Vân Nam) diện tích khoảng 1.468 km², hơn 500.000 dân với 70 thị trấn ở độ cao trung bình trên 1.900m. Trong bối cảnh từ sau năm 1990 quá trình đô thị hóa ở thành phố này diễn ra quá nhanh (từ 6% lên 33%) với mức tăng ròng dân số đô thị khoảng 90.000 người/năm.
Kết quả tính Ecological Footprints cho ra nhiều chỉ số, ví dụ chỉ số thâm hụt sinh thái bình quân đầu người của thành phố này là 1,14ha (hiểu là dân số tại chỗ tiêu thụ vượt năng suất sinh học của đất đai tại chỗ tính bằng diện tích đất), khiến hệ sinh thái núi của Đại Lý vốn rất mong manh bị các hoạt động mở rộng đất của con người gây tổn thương nghiêm trọng.
Dẫn tới một kết luận: “Do bản chất địa hình, việc mở rộng đô thị trong tương lai không thể tiếp tục chiếm một lượng lớn đất núi. Đại Lý cần chọn một con đường bền vững mới thay vì sử dụng tài nguyên chủ yếu ở dạng sơ chế, giá trị gia tăng của sản phẩm thấp; nên học từ phương thức “kinh tế nhỏ và tinh” của kinh tế miền núi Thụy Sĩ để đảm bảo phát triển sản phẩm tài nguyên từ các khía cạnh vốn, công nghệ và nhân lực, tăng cường chế biến sâu tài nguyên sinh thái…” (9).
Cơn mưa lớn kéo dài hơn 3 giờ đồng hồ, ngã 6, trung tâm thành phố Buôn Mê Thuột biến thành sông , giao thông tắc nghẽn. Ảnh tư liệu: Báo Tuổi trẻ
Từ ví dụ trên, liên hệ với Việt Nam, chúng ta đều biết tỉnh miền núi nào cũng ít nhất chịu hai nghĩa vụ: một mặt đảm bảo sinh kế cho cư dân nội tỉnh dựa trên nguồn tài nguyên tại chỗ, mặt khác bảo vệ hệ sinh thái bền vững rừng đầu nguồn cho cư dân các tỉnh vùng hạ du. Muốn thế phải “đo lường được thiên nhiên và lượng hóa được những gì con người sử dụng thiên nhiên”. Nhưng đáng tiếc, cho đến hôm nay, từ khái niệm đến phương pháp để đo lường các nội dung đó đều thiếu hoặc không được áp dụng, thậm chi xa lạ với hầu hết những người làm quy hoạch.
Nên mới có chuyện ở tỉnh Lâm Đồng một doanh nghiệp chỉ đền bù cho mỗi m2 đất 7.400 đồng, không mua nổi gói xôi sáng (là giá khuyến khích không phải chế tài). Và các tỉnh Đăk Nông, Bình Phước, Đồng Nai, Bình Dương, TP.HCM thì không phải trả tiền bảo vệ, duy trì hệ sinh thái rừng Lâm Đồng dù hàng ngày sử dụng nước từ con sông Đồng Nai.
Cũng tỉnh này, dân số đến 2019 hơn 1,2 triệu người, gần một nửa sống ở các đô thị và gần ½ số đó cư trú tại TP. Đà Lạt (260.000 người, mật độ 602 người/km²). Còn nếu tính cả khoảng 7 triệu khách du lịch đến thành phố này hàng năm thì rất có thể, có những thời điểm số người có mặt tại Đà Lạt còn cao hơn dân số tỉnh Lâm Đồng? Tức mật độ dân số thực tế của Đà Lạt cao hơn nhiều, cần nhiều hơn đất đai canh tác cung cấp thức ăn, cần xây dựng nhiều nữa các loại bất động sản và hạ tầng đô thị.
Vậy, để thỏa mãn rất nhiều loại nhu cầu ngày càng tăng, con người ở Đà Lạt/Lâm Đồng lại tiếp tục “đô thị hóa” phá rừng núi nhiều nữa. Rơi vào vòng xoáy của sự tàn phá này, không chỉ hại chính họ, mà cả các cư dân ở lưu vực sông Đồng Nai.
Đường vào chợ Đà Lạt sau trận mưa ngày 12.7. Ảnh: Lâm Viên/Thanh Niên
Suối Cam Ly đoạn cắt ngang đường Phan Đình Phùng không thoát kịp nước trong trận mưa to ngày 23.6.2023. Ảnh: Mai Vinh
Mưa lớn kéo dài và lượng mưa cao bất thường trong tháng 6 và 7 là một trong ba nguyên nhân gây ngập úng, sạt lở ở Lâm Đồng. Ảnh: Người Lao Động
Mô hình hóa tìm chiến lược sống cho đô thị núi
Việc xây dựng các loại hạ tầng, công trình trên núi đương nhiên khó khăn hơn đồng bằng nhiều. Trước hết từ nhận thức không gian: “Độ thẳng đứng là chìa khóa để hiểu về núi, là đặc điểm sinh thái nổi bật nhất”. Nơi mà “Các mối liên kết sinh thái, “cơ sở hạ tầng xanh” cần bảo vệ được sắp xếp theo chiều dọc (chứ không phải chiều ngang như đồng bằng) gắn kết với các quá trình đô thị hóa mở rộng ở vùng núi giữa các khu vực có độ cao khác nhau. Là một hiện tượng được nghiên cứu nhiều nhất trong các nghiên cứu về núi” (10).
Sự phát triển khoa học, công nghệ đang giúp con người hiểu núi và xây dựng đô thị núi. Tại nhiều nước công nghệ viễn thám và khoa học thông tin địa lý (GIS) đã giúp lập mô hình hóa (modeling) mô hình phát triển đô thị núi. Nó hỗ trợ phân tích dữ liệu không gian địa lý và ra quyết định cho thiết kế, tạo lập môi trường xây dựng trên địa hình dốc, liên tục thay đổi cao độ, và cũng là công cụ dể quản lý quá trình phát triển đô thị bền vững.
Chẳng hạn, nó mô tả trực quan mối liên kết đô thị – nông thôn giữa các vùng theo độ cao. Các mối liên kết hệ sinh thái, cơ sở hạ tầng, nhân khẩu học, kinh tế và văn hóa xã hội ở vùng núi thể hiện nhiều đặc thù do địa hình và độ cao của môi trường đô thị hóa. “Dòng chảy” của các dịch vụ hệ sinh thái miền núi, giao thông nối các thung lũng và đỉnh núi, sự di chuyển của con người trong không gian theo chiều dọc, sử dụng có chủ ý môi trường núi cũng như bản sắc của mỗi ngọn núi để xây dựng thương hiệu cho các thành phố núi, thu hút các nhà đầu tư và du khách…
Mưa lớn gây ngập úng cục bộ tại nhiều tuyến phố ở TP. Điện Biên Phủ ngày 2-3.8.2023. Ảnh: Vietnamnet
Modeling địa hình tự nhiên dễ dàng cho thấy bản chất của hình dốc không cho phép tụ tập số lượng lớn con người vào một đô thị. Vì vậy hầu hết các thành phố miền núi trên thế giới đã áp dụng chiến lược phát triển đô thị đa tâm, chuyển tải gánh nặng phát triển đồng tâm, tập trung, sang đa trung tâm như một hình thái đô thị truyền thống của miền núi. Tính đa tâm tự nhiên sinh ra và đặc biệt áp dụng cho các đô thị miền núi xuất phát từ những mối lo sợ các hậu quả tàn phá tự nhiên, xáo trộn sinh thái.
Trung Quốc đã theo đuổi tính đa tâm như một chiến lược quy hoạch không gian. Thậm chí, Huang (2006) tuyên bố: “Nếu dân số đô thị vượt quá 100.000 người, thì đa trung tâm là một lựa chọn thích hợp cho một thành phố miền núi”. Tất nhiên còn cần các cách tiếp cận dựa trên địa điểm, đặc điểm, tính đặc thù của mỗi thành phố núi, thay vì “chỉ một kích cỡ phù hợp với tất cả”.
Thành phố núi Đại Lý (Vân Nam, Trung Quốc). Ảnh: Internet
TP Đại Lý với 60% (khoảng gần 300.000 người) tập trung chủ yếu ở khu trung tâm thành phố, hay Trùng Khánh thuộc trường hợp nghiên cứu này. Được khẳng định tính đa tâm là hình thái và chức năng của các thành phố miền núi có thể áp dụng cho các cảnh quan miền núi ở nhiều nước. Bởi nó sẽ hướng dẫn sự phân bổ phù hợp, cân bằng và khả năng kết nối đa hướng cho các nút đô thị núi. Nó là kết quả của thuyết tự nhiên quyết định, không phải ý chí con người (11).
Nhưng cũng như Ecological Footprints, công cụ mô hình hóa khá phổ biến trong công tác quy hoạch ở nhiều nước vẫn không vào được Việt Nam. Các modeling chân thực vẫn không được thay “hàng chồng bản vẽ 2D tô xanh bôi đỏ” rất khó kiểm chứng, hàng ký hồ sơ thuyết trình quy hoạch dài lê thê khá giống nhau, dù được làm cho các tỉnh thuộc những vùng địa lý khác nhau ở nước ta.
Hình điêu khắc Đức Phật viên tịch trong quần thể hang động Ellora thuộc ngọn núi Charanandi, Ấn Độ. Ảnh: Trần Trung Chính
Phật giáo – Khoa học – Kỷ luật
Nếu con người trong các bước tiệm tiến khó khăn để nhận thức hệ sinh thái toàn cầu và vai trò của nó trong đó, nhờ/bằng những thành tựu khoa học, thì thật kinh ngạc khi họ nhận ra từ hàng ngàn năm trước đã có trong giáo lý của Phật giáo. Một quan niệm sớm nhất, đúng nhất về thế giới này: “Tất cả mọi thứ được kết nối với nhau. Không có gì hiện hữu tồn tại như một thực thể riêng biệt, cố định, biệt lập. Mọi thứ chỉ tồn tại trong mối quan hệ và kết nối với những thứ khác” (12). Ý tưởng này được mô hình hóa bằng “Mạng lưới Lưới Đế Thích ba chiều trải vào không gian mênh mông vô tận, theo mọi hướng…”
Tức là Phật giáo hay khoa học đều là con đường dẫn tới nhận thức thế giới sinh thái. Chỉ khác, Phật giáo cần từng bước tiệm ngộ/từng bước tự giác thực hành, còn khoa học cần đến kỷ luật để thực thi. Sự kỷ luật mà nhà sinh thái học Garrett Hardin tuyên bố cứng rắn: “Dân số càng vượt quá khả năng chịu tải của môi trường thì càng phải từ bỏ nhiều quyền tự do”.
Lũ quét từ trên đồi cao tràn xuống con đường bêtông ở xã Minh Phú, huyện Sóc Sơn, vùi và làm hư hại 13 ôtô của du khách, sáng 4.8.2023. Ảnh: Vnexpress
Sa Pa được bê tông hoá toàn diện. Ảnh tư liệu: Báo Nhân Dân
Vậy đứng trước tình trạng xây dựng hỗn loạn ở Sa Pa hay thảm họa lở núi, chết người ở Đà Lạt, các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên… chúng ta sẽ đặt nhiều niềm tin vào một thiết chế dựa trên khoa học và sức mạnh kỷ luật dựa trên sự liêm chính để quản lý xây dựng các đô thị núi? Còn nếu “những người đồng bằng tiến núi” chưa muốn chấp nhận cả khoa học lẫn kỷ luật, thì vẫn/chỉ còn Phật giáo trong hình ảnh “Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời, đạt được giác ngộ và viên tịch dưới gốc cây”. Một khung cảnh thiêng liêng thuộc về rừng núi!
Rừng của Tây Nguyên không những có quy mô lớn nhất cả nước về diện tích mà còn có trữ lượng gỗ lớn, chất lượng rừng và đa dạng sinh học. Thế nhưng tài nguyên rừng Tây Nguyên phải đối mặt với sự tàn phá nặng nề. Từ 1975 đến 1990 diện tích có rừng giảm 325,6 nghìn ha (giảm 8,7%), trung bình 23 nghìn ha/năm hay 0,65%/năm.
Độ che phủ giảm từ 67% năm 1975 xuống còn 61,1% năm 1990 (bình quân đất có rừng giảm từ 2,7ha/người năm 1975 xuống còn 1,4ha/ người năm 1990). Từ năm 1990 – 2005, mỗi năm có khoảng 28 nghìn ha rừng bị xoá sổ, độ che phủ rừng cũng như chất lượng rừng cũng suy giảm nhanh chóng. Rừng giàu và trung bình giảm 75%, rừng nghèo tăng 109%.
Trữ lượng gỗ từ 420 triệu m3 đầu những năm sau 1975 chỉ còn lại 288 triệu m3 năm 2005. Các loại gỗ quí giảm nghiêm trọng về trữ lượng và diện phân bố, nhiều loại không còn khả năng tái sinh. Do sự khai thác không hợp lý, đến nay tài nguyên sinh vật bị giảm sút nhiều, có nhiều loại quí hiếm hầu như bị tuyệt chủng hoặc phải di chuyển đến các vùng khác ngoài biên giới nước ta.
(Theo Nghiên cứu Đánh giá tổng hợp tài nguyên- môi trường, kinh tế- xã hội và đề xuất luận cứ khoa học công nghệ phục vụ chiến lược phát triển bền vững Tây Nguyên giai đoạn 2011-2015 và tầm nhìn 2030 của Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam)
Trần Trung Chính
________________
(1) How Forests Near and Far Benefit People in Cities
(2) GS. Deborah Lawrence, Đại học Virginia: Deforestation in the Amazon will cause precipitation in Britain
(3) The Power of One Tree – The Very Air We Breathe
(4) What role do forests play in the water cycle?
(5) Humus: What is it and How is it Formed?
(6) Mountain-Forestry Commuicatino Toolkit
(7) Population trends and urbanization in mountain range
(8) 4 loại dịch vụ: Cung cấp, điều tiết,văn hóa, hỗ trợ
(9) Impacts of Urbanization of Mountainous Areas on Resources and Environment: Based on Ecological Footprint Model
(10) Urbanization and the Verticality of Rural–Urban Linkages in Mountains
(11) Mountainous settlements
(12) Buddhism+ecology.